Số lượng quốc gia áp dụng thuế GTGT/thuế hàng
hoá và dịch vụ ngày càng tăng, nếu như năm 2004 là 140 nước thì đến năm
2014, 2016 các con số tương ứng lần lượt là 160 và 166 nước.
Cùng với việc tăng số lượng các nước sử dụng thuế GTGT để điều tiết
tiêu dùng cũng như tăng số thu ngân sách thì xu thế tăng thuế suất GTGT
cũng diễn ra phố biến.
Theo đó, các nước đều đã tăng thuế suất phổ thông từ năm 2009 – 2016.
Thuế suất trung bình tại các nước EU năm 2000 là 19% nhưng đến năm 2014
đã tăng lên gần 21,5%. Các nước OECD cũng có xu hướng tăng thuế GTGT từ
mức trung bình 18% năm 2000 lên khoảng 19% năm 2014 và hơn 19% vào năm
2016. Các nước ở châu Á cũng không ngoại lệ khi nhiều nước như
Philippines, Ấn Độ, Nhật Bản... đã cơ cấu lại thu ngân sách theo hướng
tăng tỷ trọng thuế tiêu dùng trong tổng thu ngân sách từ việc tăng thuế
suất thuế GTGT.
Dẫn ra số liệu từ World Bank, Bộ Tài chính cho biết qua thống kê mức
thuế suất của 112 nước, có 88 nước có mức thuế suất từ 12 – 25%. Trong
đó có 56 nước có mức thuế suất từ 17 – 25%, còn lại 24 nước phố biến ở
mức hơn 10%.
Đối với các nước xung quanh Việt Nam, Bộ Tài chính cũng chỉ rõ thuế
phổ thông đang cao hơn 10%. Cụ thể, ở Lào, Indonesia, Campuchia mức thuế
phổ thông là 17%, mức thuế ưu đãi là 13% còn ở Philippines mức thuế
suất là 15%.
Do đó, Bộ Tài chính đã đề nghị nâng mức thuế suất thuế GTGT theo hai phương án:
Phương án 1: Tăng từ 10% lên 12% kể từ ngày 1/1/2019
Phương án 2: Tăng theo lộ trình lên 12% từ ngày 1/1/2018 và 14% từ ngày 1/1/2021
Trong đó, Bộ Tài chính đề nghị cân nhắc phương án 1.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cũng đưa ra bốn nội dung sửa đổi nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Bao gồm:
-Chuyến phân bón, máy móc, thiết bị chuyên dùng cho nông nghiệp, tàu
đánh bắt xa bờ từ đối tượng không chịu thuế GTGT sang đối tượng chịu
thuế GTGT.
-Bổ sung quy định doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, cung ứng dịch vụ
chịu thuế suất thuế GTGT 5% nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu
trừ hết sau 12 tháng hoặc 4 quý thì được hoàn thuế GTGT.
-Bỏ quy định “sản phẩm xuất khẩu là hàng hóa được chế biến từ tài
nguyên, khoáng sản có tổng trị giá tài nguyên, khoáng sản cộng
với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên”
không chịu thuế GTGT. Đồng thời bỏ quy định “Dự án đầu tư khai thác tài
nguyên, khoáng sản được cấp phép từ ngày 1/7/2016 hoặc dự án đầu tư sản
xuất sản phẩm hàng hóa mà tổng trị giá tài nguyên, khoáng sản cộng với
chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên theo dự án
đầu tư” không được hoàn thuế GTGT
-Quy định điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào là có chứng từ thanh
toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng
hóa, dịch vụ mua từng lần từ mức dưới hai mươi triệu đồng xuống mức dưới
10 triệu đồng.