I. Về giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán
Trước hết, cần hiểu rõ thế nào là giá trị
pháp lý của Báo cáo kiểm toán, giá trị pháp lý là giá trị bắt buộc phải
thực hiện, tức là đơn vị được kiểm toán bắt buộc phải thực hiện theo ý
kiến ghi trong báo cáo kiểm toán của KTV. Nếu hiểu như vậy thì Chủ đầu
tư là đơn vị được kiểm toán phải thực hiện theo ý kiến của KTV ghi trong
báo cáo kiểm toán. Điều đó là không đúng vì kiểm toán độc lập chỉ là
một loại hình dịch vụ và đơn vị được kiểm toán không bắt buộc phải thực
hiện ý kiến hoặc kiến nghị của KTV. Tại Khoản 4, Điều 7, Luật kiểm toán
độc năm 2011 lập quy định “Báo cáo kiểm toán được sử dụng để: a) Cổ
đông, nhà đầu tư, bên tham gia liên doanh, liên kết, khách hàng và tổ
chức, cá nhân khác có quyền lợi trực tiếp hoặc liên quan đến đơn vị được
kiểm toán xử lý các quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có
liên quan; b) Cơ quan nhà nước quản lý, điều hành theo chức năng, nhiệm vụ được giao; c) Đơn vị được kiểm toán phát hiện, xử lý và ngăn ngừa kịp thời sai sót, yếu kém trong hoạt động của đơn vị.”
Như vậy, đối với hoạt động kiểm toán BCQTDAHT thì báo cáo kiểm toán chủ yếu dùng để “b) Cơ quan nhà nước quản lý, điều hành theo chức năng, nhiệm vụ được giao; c) Đơn vị được kiểm toán phát hiện, xử lý và ngăn ngừa kịp thời sai sót, yếu kém trong hoạt động của đơn vị.” và Luật kiểm toán độc lập không quy định giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán.
Để làm rõ giá trị của Báo cáo kiểm toán,
trước hết chúng ta cần xem xét trách nhiệm đối với BCQTDAHT, trách nhiệm
đối với Báo cáo kiểm toán của KTV và DNKiT và nội dung, các loại ý kiến
của KTV về BCQTDAHT theo qui định của pháp luật hiện hành.
Thứ nhất, trách nhiệm đối với BCQTDAHT và trách nhiệm đối với Báo cáo kiểm toán:
Theo điểm b và điểm c, Khoản 1, Điều 26
của Thông tư số 09/2016/TT-BTC “Quy định về quyết toán dự án hoàn thành
thuộc nguồn vốn nhà nước” quy định về trách nhiệm của Chủ đầu tư là:“b)
Lập và quản lý hồ sơ quyết toán dự án hoàn thành đúng quy định, trình
cấp có thẩm quyền phê duyệt quyết toán đúng thời gian quy định tại Điều
22 Thông tư này; cung cấp đầy đủ tài liệu liên quan đến quyết toán dự án
hoàn thành theo yêu cầu của KTV khi kiểm toán báo cáo quyết toán và cơ quan thẩm tra quyết toán; c)
Chịu trách nhiệm trước pháp luật, cơ quan thẩm tra quyết toán về tính
pháp lý của hồ sơ quyết toán và tính đúng đắn của số liệu đề nghị quyết
toán; tính chính xác của khối lượng do chủ đầu tư và nhà thầu nghiệm thu
đưa vào báo cáo quyết toán; tính phù hợp của đơn giá do chủ đầu tư và
nhà thầu đã thống nhất ghi trong hợp đồng.”
Cũng theo Khoản 2, Điều 10, Thông tư 09 thì trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCQTDAHT là “Khi
thực hiện kiểm toán phải tuân thủ các quy định của pháp luật về kiểm
toán độc lập cũng như các chuẩn mực kiểm toán hiện hành. Khi kết thúc
cuộc kiểm toán phải lập BCQTDAHT với đầy đủ nội dung quy định của Chuẩn
mực kiểm toán Việt Nam về Kiểm toán BCQTDAHT.”
Đồng thời, Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
1000 – “Kiểm toán BCQTDAHT” (ban hành theo Thông tư 67/2015/TT-BTC ngày
8/5/2015 của Bộ Tài chính) nêu rõ “Mục đích của kiểm toán BCQTDAHT
là làm tăng độ tin cậy của người sử dụng đối với BCQTDAHT và là cơ sở để
người có thẩm quyền phê duyệt quyết toán xem xét phê duyệt BCQTDAHT thông
qua việc KTV và DNKiT đưa ra ý kiến, xét trên các khía cạnh trọng yếu,
liệu quá trình thực hiện dự án có tuân thủ các quy định về quản lý đầu
tư và BCQTDAHT có phản ánh trung thực và hợp lý tình hình quyết toán dự
án tại thời điểm lập báo cáo, có phù hợp với chuẩn mực kế toán, chế độ
kế toán và các quy định pháp lý có liên quan đến việc lập và trình bày
BCQTDAHT hay không” và quy định trách nhiệm của KTV và DNKiT là “KTV và DNKiT chịu trách nhiệm kiểm tra BCQTDAHT trên cơ sở hồ sơ quyết toán dự án hoàn thành do đơn vị được kiểm toán cung cấp và đưa ra ý kiến của mình về việc tuân thủ các quy định về quản lý đầu tư trong quá trình thực hiện dự án và về tính trung thực, hợp lý của BCQTDAHT dựa trên kết quả của cuộc kiểm toán. Việc kiểm toán BCQTDAHT không làm giảm nhẹ trách nhiệm của Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán đối với BCQTDAHT”.
Theo đó, người sử dụng BCQTDAHT không thể cho rằng ý kiến của KTV là sự
đảm bảo tuyệt đối về tính đầy đủ, đúng đắn của BCQTDAHT và về việc tuân
thủ các quy định quản lý đầu tư của Chủ đầu tư hay Ban quản lý dự án.
Quan hệ kiểm toán độc lập dựa trên hợp
đồng dịch vụ mà DNKiT đã ký với khách hàng. KTV và DNKiT chịu trách
nhiệm thực hiện dịch vụ kiểm toán theo các nguyên tắc hoạt động kiểm
toán độc lập được quy định tại Điều 8, Luật kiểm toán độc lập số
67/2011/QH12 là: (1) Tuân thủ pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp
luật về hoạt động nghề nghiệp và báo cáo kiểm toán; (2) Tuân thủ chuẩn
mực kiểm toán và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Việt
Nam; (3) Độc lập, trung thực, khách quan, (4) Bảo mật thông tin.
Thứ hai, nội dung và các dạng ý kiến của KTV về BCQTDAHT theo qui định của Chuẩn mực kiểm toán số 1000 và các chuẩn mực kiểm toán có liên quan (Chuẩn mực kiểm toán số 700
về ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần, 705 về kiến kiểm toán không
phải là ý kiến chấp nhận toàn phần và 706 về đoạn “Vấn đề cần nhấn mạnh”
và “Vấn đề khác” trong báo cáo kiểm toán)
Các dạng ý kiến của KTV độc lập: Khác với ý
kiến kết luận của các cơ quan kiểm toán nhà nước, hoặc cơ quan thuế, cơ
quan thanh tra, cơ quan thẩm tra phê duyệt quyết toán, căn cứ kết quả
kiểm toán, KTV đưa ra các dạng ý kiến về BCQTDAHT như sau:
(a) Ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần
KTV đưa ra ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn
phần khi KTV kết luận rằng, xét trên các khía cạnh trọng yếu: (a) Quá
trình thực hiện dự án đã tuân thủ các quy định về quản lý đầu tư; (b)
BCQTDAHT do đơn vị được kiểm toán lập đã phản ánh trung thực và hợp lý
tình hình quyết toán dự án tại thời điểm lập báo cáo quyết toán, phù hợp
với chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các quy định pháp lý có liên
quan đến việc lập và trình bày BCQTDAHT.
Ví dụ về ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần: “Trên cơ sở các tài liệu, hồ sơ được chủ đầu tư cung cấp và kết quả kiểm tra, theo ý kiến của chúng tôi, xét trên các khía cạnh trọng yếu, quá trình thực hiện dự án đã tuân thủ các quy định về quản lý đầu tư và BCQTDAHT đã phản ánh trung thực và hợp lý tình hình quyết toán dự án tại thời điểm lập báo cáo, phù hợp với chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các quy định pháp lý có liên quan đến việc lập và trình bày BCQTDAHT”.
Ý kiến chấp nhận toàn phần được áp dụng
cho trường hợp: (i) BCQTDAHT được kiểm toán có những sai sót nhưng đã
được KTV phát hiện, đơn vị đã điều chỉnh theo ý kiến của KTV và BCQTDAHT
sau khi điều chỉnh đã được KTV kết luận là phản ánh trung thực và hợp
lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình quyết toán dự án tại thời điểm
lập báo cáo; (ii) BCQTDAHT đã phản ảnh trung thực và hợp lý trên các
khía cạnh trọng yếu tình hình quyết toán dự án tại thời điểm lập báo cáo
nhưng Báo cáo kiểm toán cần đưa ra các thông tin bổ sung (Vấn đề cần
nhấn mạnh hoặc Vấn đề khác) để thu hút sự chú ý của người sử dụng đối
với các vấn đề quan trọng để hiểu về BCQTDAHT hoặc vấn đề khác để hiểu
rõ về cuộc kiểm toán.
- Khi KTV đưa ý kiến chấp nhận toàn phần
không có nghĩa là số liệu trong BCQTDAHT được kiểm toán hoàn toàn đúng,
mà có thể có sai sót nhưng sai sót đó (nếu có) là không trọng yếu.
Trên thực tế phát sinh phổ biến trường hợp
trên báo cáo kiểm toán không có chênh lệch trên mức trọng yếu giữa báo
cáo quyết toán và kết quả kiểm toán. Trường hợp này có ý kiến cho rằng
KTV đã không làm gì hoặc không phát hiện ra sai sót nào của đơn vị được
kiểm toán là không đúng vì trường hợp này xảy ra khi (i) BCQTDAHT, xét
trên phương diện tổng thể không có sai sót trọng yếu; (ii) BCQTDAHT có
sai sót và KTV đã phát hiện các sai sót và đơn vị được kiểm toán đã đồng
ý điều chỉnh theo đề nghị của kiểm toán viên, dẫn tới số liệu báo cáo
quyết toán sau điều chỉnh đã khớp với kết quả kiểm toán. Bằng chứng kiểm
toán về các sai sót mà KTV phát hiện, các biên bản trao đổi giữa KTV và
Chủ đầu tư về các sai sót cũng như việc chấp thuận điều chỉnh sai sót
của Chủ đầu tư làm cơ sở đưa ra ý kiến được ghi chép, lưu trữ trong hồ
sơ kiểm toán. Do đó để biết được tác dụng và hiệu quả công việc của cuộc
kiểm toán, ví dụ để biết các sai sót mà KTV đã phát hiện, cơ quan quản
lý Nhà nước có thẩm quyền có thể trao đổi với KTV hoặc yêu cầu KTV và
DNKiT cung cấp hồ sơ, tài liệu kiểm toán có liên quan để xem xét.
(b) Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận từng phần, gồm 3 dạng:
(b.1)Ý kiến kiểm toán ngoại trừ
KTV trình bày “Ý kiến kiểm toán ngoại trừ”
trong 2 trường hợp: (a) Thứ nhất là do bất đồng ý kiến, theo đó dựa
trên các bằng chứng kiểm toán đầy đủ, thích hợp đã thu thập được, KTV
kết luận là quá trình thực hiện dự án chưa tuân thủ theo quy định về
quản lý đầu tư và/hoặc các sai sót, khi xét riêng lẻ hay tổng hợp lại,
có ảnh hưởng trọng yếu nhưng không lan tỏa đối với BCQTDAHT; b) Thứ hai,
do giới hạn phạm vi kiểm toán từ phía Chủ đầu tư, theo đó KTV không thể
thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra
kết luận rằng liệu quá trình thực hiện dự án có tuân thủ theo quy định
về quản lý đầu tư hay không và/hoặc làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán về
BCQTDAHT, nhưng KTV kết luận rằng những ảnh hưởng có thể có của các sai
sót chưa được phát hiện (nếu có) có thể là trọng yếu nhưng không lan
tỏa đối với BCQTDAHT.
Ý kiến kiểm toán ngoại trừ thể hiện các vấn đề không được chấp nhận, bằng mẫu câu: “ngoại
trừ ảnh hưởng của vấn đề nêu tại đoạn “Cơ sở của ý kiến kiểm toán ngoại
trừ”, BCQTDAHT phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng
yếu...” .
Như vậy, khi báo cáo kiểm toán đưa ra ý
kiến kiểm toán ngoại trừ và có chênh lệch giữa kết quả kiểm toán và số
liệu báo cáo quyết toán có nghĩa là kiểm toán viên đã đề nghị đơn vị
được kiểm toán điều chỉnh các sai sót nhưng đơn vị được kiểm toán không
đồng ý điều chỉnh (bất đồng ý kiến), khác với trường hợp đơn vị đồng ý
điều chỉnh ở trên hoặc có những giới hạn phạm vi mà kiểm toán viên không
thể thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp được. Tùy vào mức độ
lan tỏa của sai sót hay giới hạn phạm vi mà kiểm toán viên có thể quyết
định đưa ra ý kiến trái ngược hoặc từ chối đưa ra ý kiến như được mô tả
dưới đây.
(b.2) Từ chối đưa ra ý kiến
KTV phải từ chối đưa ra ý kiến khi KTV bị
giới hạn phạm vi từ Chủ đầu tư không thể thu thập được đầy đủ bằng
chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra kết luận rằng liệu quá
trình thực hiện dự án có tuân thủ theo quy định về quản lý đầu tư hay
không và/hoặc làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán về BCQTDAHT và KTV kết
luận rằng những ảnh hưởng có thể có là trọng yếu và lan tỏa đối với
BCQTDAHT, bằng mẫu câu: “Do tầm quan trọng của vấn đề nêu tại đoạn
“Cơ sở của việc từ chối đưa ra ý kiến”, chúng tôi không thể thu thập
được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến
kiểm toán. Do đó, chúng tôi không thể đưa ra ý kiến kiểm toán về
BCQTDAHT...”.
(b.3) Ý kiến kiểm toán trái ngược
KTV phải trình bày “Ý kiến kiểm toán trái
ngược” khi dựa trên các bằng chứng kiểm toán đầy đủ, thích hợp đã thu
thập được, KTV kết luận là quá trình thực hiện dự án chưa tuân thủ theo
quy định về quản lý đầu tư và/hoặc các sai sót, xét riêng lẻ hay tổng
hợp lại, có ảnh hưởng trọng yếu và lan tỏa đối với BCQTDAHT, bằng mẫu
câu: "Theo ý kiến của chúng tôi, do tầm quan trọng của vấn đề nêu
tại “Cơ sở của ý kiến kiểm toán trái ngược”, BCQTDAHT đã không phản ánh
trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu tình hình quyết toán
dự án tại thời điểm lập báo cáo của...".
Trên thực tế KTV không thể đưa ra ý
kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần khi xảy ra một trong các tình huống
có thể ảnh hưởng trọng yếu đến BCQTDAHT, như: (i) Phạm vi
công việc kiểm toán bị giới hạn (như do khách hàng áp đặt, do hoàn cảnh
thực tế, do các tài liệu kế toán không đầy đủ, hoặc là do KTV không thể
thực hiện các thủ tục kiểm toán cần thiết; (ii) Không nhất trí với Giám
đốc đơn vị được kiểm toán về sự không phù hợp của các thông tin ghi
trong BCQTDAHT,....
Như vậy ý kiến của KTV đưa ra trong Báo
cáo kiểm toán chỉ làm tăng sự tin cậy của người sử dụng đối với
BCQTDAHT, Báo cáo kiểm toán chỉ đưa ra ý kiến của người hành nghề độc
lập về BCQTDAHT mà không phải là kết luận của các cơ quan thẩm tra phê
duyệt quyết toán, cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan kiểm toán nhà
nước, cơ quan thuế nên không bắt buộc đơn vị được kiểm toán phải tuân
thủ. Do đó Báo cáo kiểm toán không thể thay thế được kết luận kiểm tra,
thanh tra, kiểm toán hoặc phê duyệt báo cáo quyết toán của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền (như Kiểm toán nhà nước, Thanh tra chính phủ,
Thanh tra nhà nước chuyên ngành, cơ quan thẩm tra phê duyệt báo cáo
quyết toán,...). Đồng thời công việc của KTV độc lập không thể thay thế
công việc của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan kiểm toán nhà
nước, cơ quan thuế, cơ quan thẩm tra phê duyệt quyết toán. Điều này được
giải thích rõ hơn vì Ý kiến của KTV về BCQTDAHT không phải là sự đảm bảo tuyệt đối mà chỉ là sự đảm bảo hợp lý. Khi thực hiện kiểm toán, KTV chỉ có được sự đảm bảo hợp lý (chứ không phải sự đảm bảo tuyệt đối) rằng BCQTDAHT
nếu có sai sót trọng yếu thì đã được KTV phát hiện và trình bày trong
Báo cáo kiểm toán. Đảm bảo hợp lý là sự đảm bảo ở mức độ cao nhưng
không phải là đảm bảo tuyệt đối do luôn tồn tại những hạn chế vốn có của
cuộc kiểm toán làm cho hầu hết bằng chứng kiểm toán mà KTV dựa vào để
đưa ra kết luận và ý kiến kiểm toán đều mang tính thuyết phục hơn là
khẳng định. Những hạn chế vốn có của cuộc kiểm toán bắt nguồn từ: (1)
Bản chất của việc lập và trình BCQTDAHT bao gồm các xét đoán của Ban
Giám đốc trong việc áp dụng các quy định vào hoàn cảnh thực tế của đơn
vị. Ngoài ra, có những khoản mục trên BCQTDAHT liên quan đến các quyết
định hoặc đánh giá chủ quan hoặc có mức độ không chắc chắn, có thể dẫn
đến những cách hiểu khác nhau đều có thể được chấp nhận như các ước
tính; (2) Bản chất của các thủ tục kiểm toán, trong đó có việc khả năng
thu thập bằng chứng kiểm toán của kiểm toán viên bị giới hạn về tính khả
thi hoặc giới hạn pháp lý, như đơn vị được kiểm toán có thể cố tình
hoặc do các nguyên nhân khách quan không cung cấp đầy đủ thông tin liên
quan hoặc thông tin mà KTV yêu cầu, hành vi gian lận tại đơn vị có thể
được thực hiện tinh vi và kỹ lưỡng để che dấu (KTV không được đào tạo để
làm chuyên gia xác minh chứng từ giả mạo), mỗi cuộc kiểm toán không
phải là một cuộc điều tra hoặc thanh tra về các sai phạm. KTV không có
quyền điều tra, thanh tra, xét hỏi, khám xét như cuộc điều tra của cơ
quan pháp luật; (3) Sự cần thiết phải thực hiện cuộc kiểm toán với thời
gian và giá phí hợp lý. Sự thích hợp của thông tin, giá trị của thông
tin có xu hướng giảm đi theo thời gian và cần cân nhắc sự cân đối giữa
độ tin cậy của thông tin với chi phí bỏ ra để có được thông tin đó. Điều
này đã được nêu rõ trong hợp đồng kiểm toán. Người sử dụng BCQTDAHT
mong muốn KTV đưa ra báo cáo kiểm toán trong khoảng thời gian và giá phí
hợp lý, với nhận thức rằng KTV không thể xem xét tất cả các thông tin
có thể hiện hữu hoặc không thể tìm hiểu tất cả các vấn đề một cách thấu
đáo, tường tận dựa trên giả định rằng thông tin đó bị nhầm lẫn hay gian
lận cho đến khi chứng minh được điều ngược lại.
II. Có nhiều ý kiến đề nghị
giải thích rõ nếu báo cáo kiểm toán không có giá trị pháp lý thì có giá
trị gì và có giá trị như thế nào để khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động kiểm toán độc lập và Luật Kiểm toán độc lập đã
chi phối, điều chỉnh và quản lý hoạt động kiểm toán độc lập? Đồng thời
có ý kiến đề nghị làm rõ trách nhiệm nghề nghiệp của KTV và DNKT để góp
phần tăng cường giá trị kiểm toán.
Về vấn đề này, xin được trao đổi cụ thể như sau:
Thứ nhất, về Báo cáo kiểm toán có giá trị thực tế hơn là có giá trị pháp lý:
Kiểm toán là loại hình dịch vụ nên mục
đích của nó là phải gia tăng giá trị cho người thuê và người sử dụng
dịch vụ. Kiểm toán độc lập là hoạt động không thể thiếu trong nền kinh
tế thị trường của tất cả các quốc gia với vai trò quan trọng trong việc
đảm bảo độ tin cậy của thông tin. Lợi ích trực tiếp của kiểm toán là đưa
ra sự đảm bảo chuyên môn khách quan cho các thành viên của doanh
nghiệp, tổ chức (đơn vị được kiểm toán) rằng Ban giám đốc chịu trách
nhiệm về các hoạt động của họ một cách minh bạch và phù hợp với các
trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm chuyên môn. Lợi ích gián tiếp là công
việc của KTV sẽ cung cấp một cơ sở vững chắc cho các bên có liên quan
để đi đến các kết luận và đưa ra các quyết định hợp lý, đúng đắn. Sản
phẩm của kiểm toán độc lập là những thông tin kinh tế tài chính đã được
các KTV có đủ năng lực và độc lập xác nhận về mức độ phù hợp với các
chuẩn mực, quy định đã được thiết lập vì vậy nó là căn cứ quan trọng cho
cơ quan quản lý nhà nước đưa ra quyết định quản lý và các bên thứ ba
liên quan khác đưa ra các quyết định kinh tế.
Sự biến động kinh tế gần đây đã gây nhiều
chú ý hơn về trách nhiệm của KTV cũng như DNKT và giá trị của kiểm toán
đã thay đổi vì việc thẩm tra phê duyệt quyết toán được đưa ra dựa trên ý
kiến kiểm toán trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Để thỏa mãn nhu cầu
của nhiều đối tượng sử dụng hơn, phạm vi và giá trị kiểm toán cần vượt
lên trên sự trung thực và hợp lý của BCQTDAHT để đánh giá về quản lý rủi
ro, quản trị dự án, ... từ đó giúp Chủ đầu tư có những cải thiện nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng cường tính tuân thủ pháp luật,...
Thứ hai về trách nhiệm nghề nghiệp của KTV và DNKT:
Kiểm toán độc lập là một loại hình dịch vụ
đặc biệt đòi hỏi các chủ thể kiểm toán phải tuân thủ chuẩn mực và các
quy định về đạo đức nghề nghiệp. Theo Điều 18, Luật kiểm toán toán độc
lập, KTV và DNKiT “Thực hiện kiểm toán, soát xét hồ sơ kiểm toán hoặc ký
báo cáo kiểm toán và chịu trách nhiệm về báo cáo kiểm toán và hoạt động
kiểm toán của mình” và “Chấp hành yêu cầu về kiểm tra, kiểm soát chất
lượng dịch vụ kiểm toán theo quy định của Bộ Tài chính”. Theo Điều 29,
Luật kiểm toán độc lập DNKiT “Chịu trách nhiệm với người sử dụng kết quả
kiểm toán” và “chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước khách hàng về
kết quả kiểm toán theo hợp đồng kiểm toán đã giao kết”. Trong hợp đồng
kiểm toán đã giao kết có các thỏa thuận cụ thể về trách nhiệm của DNKiT,
như DNKiT phải thực hiện công việc theo các chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam, pháp luật và các quy định có liên quan; kiểm tra BCQTDAHT trên cơ
sở hồ sơ quyết toán dự án và tài liệu mà đơn vị được kiểm toán cung cấp;
thực hiện công việc kiểm toán theo nguyên tắc độc lập, khách quan và
bảo mật số liệu; xem xét kiểm soát nội bộ mà đơn vị được kiểm toán sử
dụng để thiết kế thủ tục kiểm toán phù hợp; lập báo cáo kiểm toán gồm
các nội dung theo quy định của Luật kiểm toán độc lập, chuẩn mực kiểm
toán số 1000, ...Trên thực tế, hệ thống các văn bản pháp luật trong hoạt
động kiểm toán độc lập quy định về trách nhiệm của KTV và DNKiT đã
tương đối đầy đủ, đồng bộ, bao gồm cả các nghị định, thông tư về xử phạt
KTV và DNKiT khi vi phạm các quy định, chuẩn mực hoặc cung cấp dịch vụ
không đảm bảo yêu cầu của chuẩn mực nghề nghiệp.
Trong bối cảnh hoạt động đầu tư, xây dựng của Nhà nước và quản lý đầu tư còn nhiều tồn tại, hạn chế, gây ra các
thất thoát, lãng phí lớn, cần thiết phải hoàn thiện thể chế về đầu tư,
nâng cao hiệu quả quản lý, tăng cường sự tuân thủ các quy định của pháp
luật của các Chủ đầu tư, đồng thời phải coi trọng vai trò của kiểm toán
độc lập đối với kiểm toán BCQTDAHT. Yêu cầu cấp bách lúc này là các KTV
và DNKiT phải không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỹ năng chuyên
môn và tuân thủ đạo đức nghề nghiệp để đảm bảo nâng cao chất lượng dịch
vụ kiểm toán BCQTDAHT. Vai trò của kiểm toán độc lập là không thể phủ
nhận, tuy nhiên để nâng cao giá trị mà kiểm toán BCQTDAHT mang lại, cần:
(1) có sự phối hợp giữa đơn vị được kiểm toán (chủ
đầu tư hoặc đại diện chủ đầu tư), cơ quan thẩm tra phê duyệt quyết toán,
các bên sử dụng kết quả kiểm toán với DNKiT để có sự hiểu biết cần
thiết về hoạt động kiểm toán độc lập, Chuẩn mực kiểm toán số 1000 và các
chuẩn mực kiểm toán Việt Nam có liên quan; (2) có sự tăng cường kiểm
tra, giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước và (3) tăng cường sự hỗ trợ,
hướng dẫn thực hiện dịch vụ này của các tổ chức nghề nghiệp trong thời
gian tới.
Trích nguồn: VACPA